Gần 50.000 đập lớn trên thế giới có thể mất hơn 25% dung lượng lưu trữ vào năm 2050 do tình trạng bồi lắng trầm tích, đe dọa an ninh năng lượng và nguồn nước.
Tình trạng xây dựng đập thủy điện ồ ạt ở các quốc gia thượng nguồn khiến mực nước trên sông Mekong nhiều năm qua đã xuống tới mức 'bất thường', đe dọa sinh kế của 60 triệu người sống dọc hạ lưu. Ảnh: SCMP

Tình trạng xây dựng đập thủy điện ồ ạt ở các quốc gia thượng nguồn khiến mực nước trên sông Mekong nhiều năm qua đã xuống tới mức “bất thường”, đe dọa sinh kế của 60 triệu người sống dọc hạ lưu. Ảnh: SCMP

Kết quả nghiên cứu về an ninh nguồn nước của Liên Hợp quốc vừa công bố hôm 11 tháng 1 đưa ra cảnh báo trên.

Theo đó, công suất của hệ thông các con đập lưu giữ nước trên toàn thế giới dự kiến ​​sẽ giảm từ 6 nghìn tỷ mét khối xuống còn 4,655 nghìn tỷ mét khối vào năm 2050. Đại học Liên Hợp quốc cho rằng, các quốc gia cần phải có hành động để giải quyết vấn đề cũng như bảo vệ cơ sở hạ tầng lưu trữ nước quan trọng bắt nguồn từ hiện tượng phù sa bồi lắng, tích tụ trong các hồ chứa do sự gián đoạn của dòng chảy tự nhiên. Điều này có thể gây hư hại cho các tua-bin thủy điện và cắt giảm quá trình phát điện.

Việc cản trở dòng trầm tích dọc theo những con sông cũng có thể khiến các vùng thượng nguồn dễ bị tổn thương do lũ lụt hơn và đe dọa môi trường sống của cư dân và cộng đồng sinh thái ở các vùng hạ lưu do xung đột nguồn nước.

Nghiên cứu của Liên Hợp quốc đã xem xét các dữ liệu từ hơn 47.000 con đập tại 150 quốc gia và cho biết, 16% công suất ban đầu đã bị biến mất. Báo cáo cho biết, Mỹ đang phải đối mặt với khoản thiệt hại 34% nguồn nước vào năm 2050, trong khi Brazil ước tính mất 23%, Ấn Độ 26% và Trung Quốc 20%.

Các nhà phân tích từ lâu đã cảnh báo rằng, chi phí xã hội và môi trường dài hạn của những con đập khổng lồ đã vượt xa lợi ích của chúng. Ông Vladimir Smakhtin, giám đốc Viện Nước, Môi trường và Sức khỏe của Đại học Liên Hợp quốc, đồng tác giả của nghiên cứu cho biết, hiện hoạt động xây dựng các đập trữ nước trên toàn thế giới đã giảm đáng kể, với khoảng 50 đập được xây dựng mỗi năm, so với con số 1.000 vào giữa thế kỷ trước.

Ông Vladimir Smakhtin nói: “Tôi cho rằng câu hỏi mà chúng ta nên đặt ra bây giờ là đâu là những lựa chọn thay thế cho các con đập – bao gồm cả việc tạo ra năng lượng – khi chúng đang bị loại bỏ dần”.

Trong một diễn biến liên quan, Trung Quốc vẫn tiếp tục xây đập trên các con sông lớn, trong đó thủy điện là một phần quan trọng trong kế hoạch cắt giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và kiểm soát khí thải nhà kính, tuy nhiên các dự án như đập Tam Hiệp – công trình thủy điện lớn nhất thế giới – đã gây ra những rối loạn về mặt xã hội và môi trường.

Theo một nghiên cứu của Reuters công bố hồi năm ngoái, các con đập do Trung Quốc xây dựng trên sông Mekong cũng đã làm gián đoạn dòng phù sa chảy vào các quốc gia hạ lưu, làm thay đổi cảnh quan và gây nguy hiểm cho sinh kế của hàng triệu nông dân.

Trong nhiều năm vừa qua, giới chuyên gia liên tục cảnh báo, việc xây dựng vô số các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đã gây ra nhưng hệ lụy và tổn thất to lớn cho vùng hạ lưu. Nguyên nhân là do nước lũ từ thượng nguồn sông Mekong chảy về hạ lưu giúp cân bằng mực nước ở các đồng bằng và mang theo phù sa làm màu mỡ cho đất, cung cấp thức ăn cho hệ thủy sinh, đồng thời đẩy lùi tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng trồng lúa và cây ăn trái, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

(Nguồn: Internet)